Đại tá Trịnh Quang Cưu sinh năm 1948, nhiều năm công tác trong Quân đội. Ông đi nhiều và viết nhiều tác phẩm thơ, văn, từng được tặng thưởng giải nhì thi truyện ngắn của Tổng cục Chính trị QĐND nhân dân Việt Nam tổ chức. Đọc các bài thơ, văn của ông, nhất là tập thơ “Trăng nước Hồ Tây” là một bằng chứng để người đọc cảm nhận Trịnh Quang Cưu là người có khả năng và duyên nợ với thi ca. Ông đã sáng tác thi ca với tâm thức như Nguyễn Văn Siêu (Thần Siêu) khẳng định: “Văn chương có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương”. Trịnh Quang Cưu đã sáng tác thơ ca với tâm thức như vậy, nhưng cũng không coi nhẹ nghệ thuật ngôn từ. Ông đã cố gắng định hình và khẳng định cá tính, phong cách riêng. Thơ Trịnh Quang Cưu coi trọng thổ lộ, giãi bầy những cảm xúc chân thực trước cuộc đời và nhân sinh, coi trọng những điều cốt lõi của thi ca nên tạo những rung động, dư chấn đối với tâm hồn người đọc.
“Trăng nước Hồ Tây” là một tập thơ đầy đặn và bề thế. 128 bài thơ được kết cấu theo một tuyến tính cảm xúc và trải nghiệm của tác giả với tám đề mục về quá khứ có những kỷ niệm sâu sắc không thể quên: Đường về hai thôn, Ngẫu hứng bên Hồ Tây, Nghĩa tình còn mãi, Trên đất nước Singapo, Dấu chân nơi đất thiêng – cõi Phật, Nụ cười trẻ thơ, Tản mạn đôi lần và Trên đất ngàn hoa.
“Trăng nước Hồ Tây” và nhiều tác phẩm văn, thơ khác của Đại tá Trịnh Quang Cưu đã để lại ấn tượng sâu đậm bởi tình đất, tình người được bộc lộ trong tâm thức khác nhau, đối với nơi chôn nhau cắt rốn và các vùng miền khác nhau, nơi Trịnh Quang Cưu đã từng sống, công tác và chiến đấu. Nhất là nghĩa tình của Bộ đội Cụ Hồ đối với nhân dân và đồng chí đồng đội trong gian khổ, hy sinh và trong niềm vui chiến thắng, người còn, người mất. Trong tập thơ “Trăng nước Hồ Tây”, ông Trịnh Quang Cưu dành đề mục “Ngẫu hứng bên Hồ Tây”, nơi ông đang sống là quận Tây Hồ để bày tỏ tình đất, tình người sâu đậm thiết tha.
HÀ NAM giới thiệu
Thơ TRỊNH QUANG CƯU
NHỚ HÀ NỘI
Ở xa nhớ về Hà Nội
Thương từng góc phố hàng cây
Đường em đi làm mỗi sáng.
Người đông, xe lắm, bụi đầy.
Chiều tan em về lối ấy
Tần ngần nhớ gió Hồ Tây
Mơ đường ngày mai bớt bụi
Mở khăn cho sáng nụ cười.
TẤT NIÊN
Ngày cuối năm tấp nập
Hàng cây trút lá vàng
Liễu ven hồ trải tóc
Làm duyên đón xuân sang.
Con nhện chiều giăng mắc
Con chuồn chuồn bay hoang
Tất niên hồ xanh nghắt
Tất niên ai vội vàng.
KHAI XUÂN
Ven hồ ấm áp bước khai xuân
Hoa pháo giăng cho đất trời gần
Bẻ lá, kẻ thô tham hái lộc
Người thamh tâm tưởng tiếng chuông ngân.
Háo hức thiêng liêng thời khắc mới
Xa xôi, ấm lạnh phút quây quần.
Mới hay kim cổ già như trẻ
Dù khó- sang, ai cũng có phần.
CHỢT MƯA HỒ TÂY
Chiều hôm chợt đổ cơn mưa
Áo ai ướt để che thơ với tình
Em rằng, mưa ướt áo anh
Nhìn nhau trời – nước, giọt tình, giọt thơ !
VÔ DUYÊN
Nhìn hoa, hoa chưa nở
Ngó nước, nước lặng yên
Hỏi em, em mắc cỡ
Anh giận mình vô duyên
TÌM BÓNG SÂM CẦM HỒ TÂY
Nghe nói ngày xưa ở Hồ Tây
Sâm cầm ríu tít tiếng gọi bầy
Có phải đất lành chim đến đậu
Ai làm đất dữ để chim bay ?
Chẳng phải tìm đâu, giữa chốn này
Từ sâu, từng xách, lại từng dây
Tiếng chim kêu xé đau hồ lặng
Bao kẻ nâng ly chuốc chén đầy !
NHỚ LIỄU HỒ TÂY
Liễu ơi! Hỡi liễu Tây Hồ
Cành cong, sắc biếc năm xưa hãy còn
Tóc mây buông vẫn còn rờn
Lòng người thuở ấy có còn nguyên xưa ?
ĐỢI
Em gắng đợi mùa thu thêm chút nữa
Mặt hồ in lặng áng mây bay
Nghe lá rụng sầu đông đang khép cửa
Khí xuân về neo đậu những đọt cây
Rồi tiếng cuốc gọi sen hè thắp lửa
Áo vàng nàng cúc đón heo may
Sẽ đến lúc trái tim đời mở cửa
Trả cho ta sương giá tháng ngày ./.